NGUYỄN HỮU LUÂN K9I
28 Tết Nhâm tý 1972, đang đóng quân ở Việt
yên - tiểu đội tôi
nhận lệnh gấp đi tiền trạm. Mùng 2 Tết toàn bộ Đại đội đã tập kết ở rừng Lạng
giang. Lính tráng cũng chẳng rõ vì sao Tết
đến lại phải chuyển ra rừng chứ không ở trong dân – (mãi đến khi có lệnh đi B
chúng tôi mới hiểu được phần nào?... Ở ngoài rừng để giữ bí mật khi xuất quân chiến
đấu). Tất cả đi làm lán dã chiến trong rừng Bạch đàn nhưng không được chặt cây
Mỗi tiểu đội chọn một ô đất trống dưới tán cây để làm một lán chung – nho nhỏ vì ni lông và bạt che không đủ. Đại đội đang thời kỳ huấn luyện chưa phát tăng võng như khi đi B chiến đấu. Lán dã chiến vừa đủ theo số lính của tiểu đội. Lính ngủ trên sàn ghép từ cây nhỏ tránh hơi đất, ba lô – súng để ngay trên đầu .
Mỗi tiểu đội chọn một ô đất trống dưới tán cây để làm một lán chung – nho nhỏ vì ni lông và bạt che không đủ. Đại đội đang thời kỳ huấn luyện chưa phát tăng võng như khi đi B chiến đấu. Lán dã chiến vừa đủ theo số lính của tiểu đội. Lính ngủ trên sàn ghép từ cây nhỏ tránh hơi đất, ba lô – súng để ngay trên đầu .
Cái xe Công nông của Luân đây phải không? |
Núi rừng, nơi lưu dấu những kỉ niệm đời lính |
Mùng 3 Tết,
đại đội tổ chức đón Tết ở rừng, trong lán
dã chiến mới với bánh chưng, ăn tươi. Tết tầm tầm, không vui như khi ở cùng với dân không phải vì
thiếu “ Men”- Giò mà vì chỉ có
lính với nhau. Trưa mùng 4 Tết, đang tập
ngoài rừng, liên lạc ra báo có người nhà lính lên thăm – Mẹ và vợ của Sỹ đã tìm
đến nơi đóng quân.
Người nhà lính đến, đám lính trẻ xa nhà vui hẳn do có xúc
tác. Đại đội chủ yếu là lính Hưng yên, Tết đầu tiên xa nhà mà đi vào tận rừng
đóng quân nay đồng hương lên chơi, lính tráng tíu tít đến hỏi thăm tin tức, chỉ có 2 người mà mang đến bao niềm vui kèm không
khí Tết cho từng người lính. Ôi ! lính
là vậy đấy, chỉ nghe được tin về quê hương hay gia đình thì bao khó nhọc hay nỗi
buồn tan biến ngay.
Chiều đến,
trước bữa cơm tối , tôi thấy đại đội tất bật, rồi trung đội – tiểu đội của Sỹ
nháo nhác. Lính ghé tai nhau nói nhỏ, chưa có nhà cho khách ở, chỗ nghỉ cho Vợ chồng Sỹ chưa lo được. Lán dã chiến của đại đội chỉ vừa đủ, nếu là
khách nam thì ngủ chật là xong, nhưng là 2 khách nữ. Cử người vào dân, nói mượn
nhà cho vợ chồng lính; dân không cho mượn (tục lệ đây như thế), trụ sở của xã
thì xa … nghe chừng chưa có cách giải quyết.
Mấy lính cùng thôn phân trần về tình cảnh với Sỹ. Cô nàng vợ Sỹ cũng phân bua : “ Khổ
quá, tại Mẹ cứ bắt Em phải đi bằng được.
Lúc đến Cao lôi, nghe các Anh phải chuyển quân lên rừng, Em đã định về rồi. Mẹ
bảo : lính chúng nó đi chiến đấu, không hoãn được. Lần này không đi liệu còn
khi nào?. Chúng mày cưới nhau được ít ngày thì nó đã nhập ngũ rồi, Mẹ mong … rồi
Mẹ khóc … Thôi , Mẹ bảo thế nào thì Em
nghe thế” . Vừa nói mà ngân ngấn
nước mắt, Vợ lính – Rõ khổ !
Bóng tối đã
bắt đầu chùm lên thung lũng, sương mỏng bắt đầu lan phủ là là mặt đất. Chợt nghe
một lính kêu lên :
- Công nông kìa? Công nông kìa .
- Sao, Công nông làm sao? Chẳng làm sao cả , kéo cái rơ móc của nó về
mà làm nhà.
Lính vừa kêu vừa chỉ tay ra phía
con đường chạy vòng vèo quanh mấy quả đồi phía xa, một chiếc Công nông có rơ
móc đang đỗ ở chân đồi. Một cậu lính chạy
lên báo đại đội, mấy cậu nữa nháo nhào
chạy về hướng quả đồi có chiếc Công nông.
Mươi phút sau, những tiếng nói, tiếng ồn ào rộ lên, chiếc rơ móc của xe Công
nông được kéo về gần với khu lán dã chiến của đại đội. Rồi lính xúm lại, buộc
cái càng rơ móc vào thân cây chắc chắn,
chèn bánh xe – che những tấm ni lông đẹp nhất để tạo thành cái buồng nhỏ, ngôi
nhà “ hạnh phúc “ thật sự bằng cả tấm lòng và tình cảm của người lính .
Ngôi nhà vừa xong trước khi trời tối, cả đại đội thở phào,
còn línhcủa tiểu đội Sỹ thì vui ra mặt.
Tối đến, tiểu đội
cũng nhận được quà từ gia đình Sỹ, chúng tôi ăn
kẹo lạc ròn thơm, nhai miếng mứt gừng cay cay thấy ấm tình người .
Bóng tối đã
bao trùm lên các quả đồi và rừng cây. Đêm
mùa đông với cái lạnh len lỏi vào giấc ngủ của những người lính. Yên lặng, thỉnh thoảng mới có sột soạt của gió hay con thú ăn đêm chạm vào lá cây . Bóng người
lính gác với bước chân nhẹ nhàng quanh khu lán dã chiến.
Sáng ra,
chúng tôi trở dậy khi sương còn buông trắng đồi, một góc rừng- bếp anh nuôi - ánh lửa bập bùng chuẩn bị bữa
sáng. Chiếc rơ móc Công nông chắn ở góc
rừng còn lại vẫn còn đang trong giấc nồng – cũng đang cháy lên ngọn lửa tình yêu - Hạnh
phúc của người lính đơn giản vậy mà biết bao khó khăn phải qua.
Chúng tôi gặp Vợ chồng Sỹ
trước lúc ra thao trường. Đôi má nàng ửng hồng, mặt cúi xuống muốn dấu sự xấu hổ
của người con gái. Mấy cậu lính cùng tiểu đội không buông tha, nói rõ to ” Em
ơi, nhớ đặt tên nó là “ Công nông “ nhé !
- Đặt tên Công nông làm kỷ niệm – tên đẹp đấy “.
Ừ, trong thời buổi
chiến tranh thế này mà có được“ Công Nông” là quí lắm đấy ? Có phải vậy không
các bạn ….
Tet NHAM THIN 2012
Đời SV , đời lính , đã cho Luân-k9i nguồn cảm hứng bất tận . Luân viết những dòng của người lính năm xưa rất sống động , rất có hậu .
Trả lờiXóaThằng "Công" hay cái " Nông" của vợ chồng nhân vật Sĩ bây giờ chắc là nó linh hoạt và chịu sương gió giỏi lắm nhỉ? Một bài viết giọng lính thật và hay- nếu có bịa chút nào thì cũng là bịa như thật!
Trả lờiXóa
Trả lờiXóa@ TMOK8Mb,
Những câu chuyện của lính chiến nghe như chuyện đùa. Bọn trung niên thời 7x - sinh sau chiến tranh( đã có gia đình ) đọc xong cứ hỏi " Các Anh không làm thêm được lán à ? Sao thế " . Không thể hiểu được hoàn cảnh lính những năm ấy, ni lông làm lán cho lính che còn chưa kín , nói gì đến làm lán mới.
Nhưng mà Sỹ vẫn còn may chán - vẫn còn mang được cái thân khá lành lặn trở về, hầu hết bọn biết ' mùi đời " như Sỹ đã nằm lại vĩnh viễn trên đất Quảng trị. Bây giờ Sỹ cũng có đủ cả nếp tẻ, chúng tôi đến thăm nó ( ở Văn lâm _ HYên) vẫn nhắc lại chuyện này - Chuyện thật mà CƯỜI RA NƯƠC MẮT .
Bài văn đặc sắc. Tình lắm người lính ơi! Chắc cháu sinh ra tên là Nhân.
Trả lờiXóa